1.Tại sao cái gì cũng được gắn với ngũ hành
Có 5 từ trong môn Ngũ hành gọi là: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ. Không có một thứ gì mà không được gắn với một trong 5 từ ấy. Sao trên trời thì có Sao Kim, sao Thủy, Sao Mộc, Sao Hỏa, Sao Thổ,… Phương hướng cũng vậy: Phương tây thuộc Kim, bắc Thủy, Nam Hỏa, Đông là Mộc. Các bộ phận trong cơ thể cũng có Kim là phổi, Thận là Thủy,… Thậm chí ngày giờ có ngày Kim ngày Mộc, ngày Hỏa. Bàn tay ta có gò Mộc tinh, gò Kim tinh. Lưỡi có thể nhận biết được vị của thực phẩm: vị cay là Kim, vị mặn là Thủy, vị chua là Mộc…. Tâm trạng con người cũng được phân theo Ngũ hành: Buồn là Kim, sợ là Thủy, giận là Mộc. Giọng nói con người cũng được qui về Ngũ hành: Khóc là Kim, Rên là Thủy,….
Một cách tự nhiên nhất và khoa học nhất chúng ta có thể hỏi: Tại sao cổ nhân cứ qui các vật, các khái niệm trên đời này về Ngũ hành? Tại sao phép gán đó lại có thể là chỗ dựa cho các tư duy? Tại sao thầy thuốc dùng Ngũ hành lại có thể chẩn bệnh chính xác, chữa bệnh hiệu quả?
Để trả lời các câu hỏi trên chúng ta trước hết hãy bắt đầu từ lập luận: cái có tên giống nhau thì ắt phải có cái gì chung.
Chẳng hạn, hành Kim được gắn cho sao Kim, phương Tây, nỗi buồn, vị cay, mầu trắng, lá phổi, … Vậy cái gì là chung nhất cho các đại lượng trên. Tại sao nỗi buồn của một cô gái lại có chung tên gọi là Kim với vùng đất phía tây, với màu trắng trên lá cờ của nước Pháp hoặc với ngôi sao Kim xa xôi trong vũ trụ bao la? Cái gì là chung cho những thứ vô cùng khác biệt, xa cách nhau như vậy.
Đêm hôm thứ ba vừa rồi một chuyên gia chiến lược đang trầm ngâm đọc bản kết quả phân tích dự báo về trữ lượng dầu mỏ trên thềm lục địa phía Nam đảo Phú Quốc bỗng giận sôi lên vì số liệu bị xóa ở chỗ quan trọng nhất. Sáng hôm sau ông lại bị một chị bán hàng ngoài chợ Hôm ở trung tâm Hà nội đốt vía vì mới tám giờ đến hỏi giá định mua hai cân cam sành rồi lại không mua? Nỗi bực tức của ông và nỗi giận của cô bán hàng đều được gọi là hành Mộc. Nhưng tại sao lại là Mộc. Tại sao cái giận học thuật cao siêu của ông lại bị xếp chung ngăn với hành vi vô văn hóa kia?
Hay người xưa cứ bịa đặt bừa phứa cho các đại lượng ấy một cái tên là Ngũ hành, Kim-Thủy-Mộc-Hỏa-Thổ, mà bây giờ khoa học hiện đại đã quăng sọt rác hết. Nhưng, nếu vậy thì tại sao môn Ngũ hành lại bền vững đến tận bây giờ sau hàng ngàn năm thử thách.
Không, ngũ hành không bịa đặt. Ngũ hành thật đơn giản. Ngũ hành chính là biểu tượng của quá trình vận động. Bởi vì sự vận động chính là cái chung nhất của mọi sự vật trên thế gian này.
Những sự vật khác nhau mà có đặc tính vận động giống nhau, hình thức vận động giống nhau, kết quả vận động giống nhau,… sẽ được qui về cùng một hành. Chữ hành ở đây xuất phát từ Hán tự chính là hành trình, quá trình, hành tiến, hành động,…
Mà trên thế gian này mọi sự vật chỉ có 5 kiểu cách vận động mà thôi. Năm phương thức vận động ấy khoác năm biểu tượng Kim-Thủy-Mộc-Hỏa-Thổ làm áo, vừa lộng lẫy vừa huyền bí. Cái áo Ngũ hành đó là thành quả dệt may hàng ngàn năm qua của những bộ óc siêu việt nhất. Ngũ hành cũng chính là di sản văn hóa quí báu nhất của tổ tiên chúng ta.
2.Nghiên cứu về thở
Con người ta ai cũng thở. Khi nào ngưng thở là chết. Vậy thở là một hoạt động quan trọng bậc nhất trong cuộc sống của chúng ta. Thở không đơn thuần chỉ có 2 pha: hít vào và thải ra. Thở là một chuỗi các hành động cực kỳ phức tạp, nó là sự mở đầu của 5 quá trình.
Quá trình 1: Thu vàoTrong quá trình thu vào ta mang vào phổi đủ thứ khí, ôxy (dưỡng khí), nitơ, các chất mùi, các hạt bụi bặm. Trong suốt quá trình thu vào, có một hoạt động khác rất quan trọng kèm theo, đó là sự lựa chọn để cho thông qua và loại bỏ. Tại các phế nang li ti trong phổi chỉ còn lại oxy. Phần lớn các thứ khí và bụi bặm khác không cần thiết cho các quá trình sống tiếp sau đó đều bị thải loại. Vậy quá trình thu vào luôn đi kèm với quá trình lựa chọn.
Quá trình 2: Tản ra.
Tản ra không phải là pha thở ra, sự thải thán khí qua mũi hoặc miệng. Sự thải loại thán khí ra chỉ là hành động chuẩn bị cho sự hít vào kế tiếp, nó là một phần tất yếu của quá trình 1. Tản ra ở đây chính là phân tán cái sản phẩm cuối cùng của quá trình 1, quá trình tích lũy của ôxy tại phổi, đến các tế bào. Trong quá trình 2 này, các phân tử ôxy được hồng cầu mang đến từng tế bào, cùng với chất dịnh dưỡng được cung cấp từ dạ dày, để duy trì và phát triển sự sống của cơ thể.
Quá trình 3: Sinh mới.
Tại tế bào các phân tử ôxy mới được tản ra trong quá trình 2, tiến hành các phản ứng hóa sinh, cung cấp năng lượng cho các hoạt động khác của cơ thể. Quá trình sinh ra năng lượng mới được gọi là quá trình sinh mới bậc nhất. Quá trình sinh mới bậc nhất này bảo đảm sự hoạt động bền vững của cơ thể, mà ta gọi là sự sống. Nếu quá trình bậc nhất đó không được duy trì thì cơ thể sẽ chết. Các tế tào nhờ sự tản ra của ôxy từ phổi và sự tản ra của thực phẩm từ dạ dày sẽ được nuôi sống và phát triển. Các tế bào (trừ các neuron thần kinh) sẽ sống một cuộc đời không dài lắm, đủ độ chín thì chúng sẽ phân đôi, tạo ra một tế bào mới. Quá trình tạo thành tế bào mới gọi là quá trình sinh mới bậc hai. Cơ thể còn một quá trình sinh mới bậc ba nữa, chính là sinh ra con cái thuộc thế hệ sau. Ba quá trính sinh mới đó được gọi chung là sinh mới. Cả ba quá trình sinh mới này đều là hệ quả trực tiếp của hai quá trình trên: thu vào và tản ra.
Quá trình 4: Hoàn thiện
Đối với cơ thể sản phẩm của cả ba quá trình sinh mới đề cập ở trên đều dần dần hoàn thiện. Hoàn thiện bậc nhất là tập trung và gom góp năng lượng từ tất cả các tế bào để duy trì thân nhiệt, để sinh công cho các hoạt động cơ bắp thông thường. Hoàn thiện bậc hai là sự lớn lên của các tế bào non, từ chỗ mềm yếu thành các tế bào trưởng thành. Hoàn thiện bậc ba là duy trì và hoàn tất các khả năng sinh lý của quá trình sinh con. Đối với phụ nữ, đó là quá trình đều đặn bổ sung năng lượng để nuôi trứng lớn dần lên và chuẩn bị cho các chu kỳ kinh nguyệt từ lúc dậy thì cho đến khoảng 40-60 tuổi. Đối với nam giới thì quá trình hoàn thiện là liên tục sản suất tinh trùng cho đến khoảng trên dưới 70 tuổi.
Quá trình 5: Suy tàn.
Sự suy tàn là không tránh khỏi đối với tất cả các thực thể mà chúng ta đã biết trên thế gian này. Từ đời sống ngắn ngủi của con bọ chệp (một loại bọ, sáng được sinh ra, chiều đã chết), đến sự kéo dài hơn 15 tỉ năm qua của vũ trụ. Tất cả các đối tượng trong vũ trụ đều sẽ bị suy tàn. Cơ thể con người cũng suy tàn dần khi mà khả năng phân đôi của tế bào kém dần, giãn cách giữa hai lần sinh đôi ngắn lại, hoặc tại một số khu vực sự sinh sôi tế bào xảy ra nhanh đến mức không kìm hãm được (ung thư). Quá trình dẫn đến cái chết dần dần xảy ra, nhưng ta thấy không rõ lắm. Toàn bộ quá trình ấy đều được gọi là quá trình thứ 5, quá trình suy tàn, được kết thúc bởi cái chết mà ta gọi là sự trở về với cát bụi.
Năm quá trình trên của sự sống bắt đầu tự sự tích lũy ôxy trong phổi. Khi nào không thể tích ôxy được nữa thì chết. Năm quá trình ấy sẽ là cơ sở cho sự phân tích tiếp theo về các quá trình có thể qui về 5.
3. Khái quát hóa một số đặc tính của ngũ hành
Năm bước của vận động hay Ngũ hành:
Ba bước đầu của sự vận động là thu vào, tản ra và sinh mới. Ba bước ấy biến từ không thành có. Hai bước sau là sự trở lui của vận động bao gồm hoàn thiện và suy tàn. Tổng cộng sự vận động có năm bước, hay năm hành trình. Năm bước ấy biến đổi sự vật từ nhỏ bé thành phương trưởng, từ âm nhu thành dương cương, từ vô hình thành hữu hình, rồi lại tiếp tục biến đổi sự vật từ đỉnh cao về nhỏ bé, từ dương về âm, từ hữu hình về lại vô hình, để rồi lại tiếp tục một chu trình vận động mới. Quá trình vận động đó trùng trùng, điệp điệp, lớp này tiếp lớp kia, xen kẽ đan chéo nhau, thúc đẩy kìm hãm nhau.
Nếu nhìn vỏ ngoài của sự vận động vô cùng và bất tận đó, ta thấy mọi sự thật phức tạp. Nhưng nếu qui lại thành Ngũ hành ta thấy vấn đề trở nên thực đơn giản. Chính vì vậy Lão tử mở đầu trước tác của ông bởi câu: “Đạo khả đạo phi thường đạo” (3). Viết câu đó ra, Lão tử có ý rằng cái khả dĩ được gọi là đạo bao trùm cho mọi sự vật và quá trình trong trời đất phải là đạo phi thường. Đạo phi thường đó chính là qui trình vận động theo 5 bước, mà người xưa gọi là Ngũ hành.
Vận động trong vũ trụ là vô biên và vĩnh hằng. Hình thức của sự vận động không phải là một đường thẳng kéo dài mãi mãi, mà luôn khúc khuỷu quanh co. Quan sát thực tế cổ nhân đã nhận thấy các bước quanh co ấy chung qui chỉ có 5 giai đoạn. Giai đoạn 1 là tụ sinh, giai đoạn 2 là khởi phát, giai đoạn 3 là đột phá, giai đoạn 4 là hoàn thiện, giai đoạn 5 là suy tàn. Sau đó lại bắt đầu sự khởi sinh một vòng mới với những bước quanh co giống như trước, nhưng ở trình độ và qui mô khác. Năm bước của sự vận động đó, người xưa đã biểu tượng hóa thành Ngũ hành. Tức là 5 hành trình, lộ trình, hay giai đoạn. Ngũ hành không phải là các biểu tượng tĩnh tại như Kim là sắt thép, Thủy là nước, Mộc là cây cỏ, Hỏa là lửa, Thổ là đất. Ngũ hành chính là 5 phép chuyển hóa (chứ không phải 72 phép biến hóa như của Tôn Ngộ Không). Mọi sự vận động trong tự nhiên và xã hội không thể ra ngoài 5 phép chuyển hóa đó. Vậy Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ chính là 5 biểu diễn toán học mô tả 5 phép chuyển hóa đó. Các phép chuyển hóa ấy có quan hệ chặt chẽ với nhau theo một thứ tự nhất định. Sự vận động nào đi đúng trật tự trên thì thuận tự nhiên, đi trật thì gọi là ngược tự nhiên. Cho nên, người ta nói “con tạo xoay vần” với hàm nghĩa là tạo hóa thì “xoay” theo chiều thuận, còn con người có thể vì ý chí chủ quan mà “vần ngược” hoặc “vần thuận.”
Khi phân tích về sự thở chúng ta đã gán cho Ngũ hành một số đặc tính cơ bản. Cụ thể như sau:
-Kim là tích tụ có chọn lọc,
-Thủy là phân tán và thử sai,
-Mộc là sáng tạo, đột phá, trong những điều kiện nhất định,
-Hỏa là hoàn thiện cái mới được sáng tạo, sao chép mô hình, nhân rộng cải tiến mô hình,
-Thổ là sự suy kiệt, khi năng lượng dành cho sự nỗ lực phát hỏa đã hết. Lúc đó theo các nguyên lý của khoa học tự nhiên (hóa học, vật lý, sinh học) chính là quá trình chuyển đổi trạng thái của vật thể. Trong lòng của sự suy kiệt và rời rã lại dần dần có sự tích tụ năng lượng, khối lượng, vật chất, tinh thần,…để chuẩn bị cho một chu trình phát triển biến hóa sau nữa, dưới dạng thức khác. Chính vì thể cổ nhân bảo Thổ có tính nuôi dưỡng. Thổ trong phép bấm độn, trong tử vi, trong định phương hướng,… nằm ở khu vực trung tâm chính là vì nó có tính nuôi dưỡng. Thổ theo ngôn ngữ mới là môi trường cho sự tìm tòi của tích Kim vòng mới.
Năm phép chuyển hóa, năm biểu tượng Ngũ hành, lẽ ra có thể được thay thế bởi các ký hiệu toán học, các nét chấm như trên Hà đồ Lạc thư, hoặc các vạch liền hay vạch đứt như trong Kinh dịch, nhưng nếu biểu diện như thế thì ta lại làm cho Ngũ hành thêm thần bí. Vì vậy chúng tôi dùng những từ ngữ nôm na để giải mã như sau.
Giai đoạn 1: tụ sinh, biểu tượng là hành KIM, chính là quá trình tụ vào, thu vào, tích lũy, hay còn gọi là tích KIM. Mọi quá trình mang tính thu vào, tích lũy đều là KIM. Bất kể là tích vàng bạc, kim loại hay tích nước, tích gỗ, tích đức, tích kiến thức, hay hít không khí vào phổi… đều thuộc về hành KIM. Hành Kim là khởi đầu của mọi quá trình vận động phát triển.
Giai đoạn 2: khởi phát, biểu tượng là hành THỦY. Sự tích lũy đến mức nào đó sẽ dẫn đến tản ra, phân tán ra, tất nhiên trong tích lũy đã có chế biến, và chọn lọc. Ví dụ phổi tích không khí, gồm có nitơ, ôxy, nhưng chỉ chọn lọc ôxy để tản ra trong các mạch máu và tế bào. Vậy hành THỦY là tản ra, như ta đổ cốc nước xuống đất thì nước tản ra xung quanh và thấm dần vào lòng đất. Sự tản ra là khởi phát cho quá trình phát triển.
Giai đoạn 3: đột phá, biểu tượng là hành MỘC. Sự tản ra của các yếu tố nhất định làm sinh mới một cái gì đó. Cho nên sau THỦY ắt đến MỘC, Ví dụ sự tản ra của dưỡng chất và ôxy vào tế bào làm sinh sôi các tế bào mới; sự tản ra của phân gio, nước, ánh sáng và hạt giống làm sinh mới cây cỏ. Hành Mộc là biểu tượng của cái mới sinh thành, cho nên người xưa ví giai đoạn này nhự sự nảy chồi của cây cối, do đó gán cho giai đoạn này cái tên là Mộc. Hành Mộc cũng chính là quá trình sáng tạo. Những thành tựu lớn lao mà nhân loại đã đạt được trong suốt quá trình tiến hóa chính là lớp lớp các hành Mộc của bao thế hệ đã qua.
Giai đoạn 4: hoàn thiện, biểu tượng là hành HỎA. Đó là quá trình hoàn thiện của cái mới sinh trong giai đoạn MỘC. Sự hoàn thiện mô hình cho thích ứng với thực tế. Khi mô hình đã hoàn thiện mỹ mãn thì tiếp tục nhân rộng ra. Ví dụ mô hình nuôi tôm nước lợ sau khi đã được thử nghiệm tốt, đã được chứng tỏ có hiệu kinh tế ở qui mô gia đình, qui mô doanh nghiệp tại một địa phương thì nó được nhân rộng ào ào như phong trào. Sự ào ào bừng bừng ấy mang sắc thái của lửa. Cho nên cái gì mang tính chất nhanh gấp, ào ào, bừng bừng là thuộc về hành HỎA. Một người nóng tính làm gì cũng mạnh mẽ, nhanh gấp người ta bảo rằng anh ấy có tính HỎA.
Giai đoạn 5: suy tàn, biểu tượng là hành THỔ. Đó là giai đoạn nghỉ ngơi sau những cố gắng ào ào của hành hỏa, giống như củi cháy hết thì còn lại tro. Trong trạng thái THỔ, các phần tử của hệ thống rời rạc, ít liên hệ mật thiết, ít có tương tác với nhau. Người ta ví Thổ như mặt đất, vì nó là chỗ chứa đựng mọi phụ phẩm của các quá trình phát hỏa. Hình 1 mô tả biểu tượng cổ về Ngũ Hành.
Trong sơ đồ hình 1 ta thấy nét liền và nét nứt. Nét liền là tương sinh, nét đứt là tương khắc. Theo các định nghĩa Ngũ hành như là các quá trình ta thấy rõ ràng các hành có tương sinh và tương khắc nhau. Ví dụ, Kim là tích tụ tất sinh Thủy là phát tán. Nhưng Kim lại khắc Mộc, vì quá trình tích tụ làm kìm hãm (làm chậm) năng lượng cho đột phát và sinh mới. Nói theo ngôn ngữ dân gian Kim (tích tụ) là Ông của Mộc (sinh mới). Khi đó Kim là tiền đề xa của Mộc, cản trở và điều chỉnh các đặc tính của sự sinh mới. Ví dụ quá trình tích tụ ở phổi toàn dưỡng khí trong lành thì các tế bào sinh mới sẽ tươi tốt. Ngược lại có bụi silic thì sẽ sinh ung thư.
Trong khi đó chính Kim lại bị Hỏa khắc. Bởi vì quá trình Hỏa mang tính sao chép mô hình, rất nhanh, ào ào, mang tính phong trào,… Quá trình ấy không thích hợp cho các quá trình tích lũy. Cho nên người xưa nói “sự yên tĩnh có lợi cho việc tu dưỡng tâm hồn”.
Sự tương sinh tương khắc trong Ngũ hành được chiêm nghiệm bởi kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân. Cơ sở lý luận của tương sinh tương khắc là học thuyết âm dương.
Ứng dụng vào một số lãnh vực đời sống
A. Ứng dụng vào việc ăn uống:
- “Trời nuôi người bằng Ngũ khí, Đất nuôi người bằng Ngũ vị”.
- Người ta phân loại thức ăn theo Ngũ hành dựa vào màu sắc, mùi vị mà suy ra tác dụng của món ăn đối với cơ thể. Thí dụ: món ăn chua đi vào Can, ngọt đi vào Tỳ… (bảng 1). Và sau đó áp dụng nguyên tắc ăn uống theo qui luật của Ngũ hành: dùng thức ăn phù hợp với tình hình sức khỏe của mình sao cho duy trì được thế quân bình (đối với người khỏe) hoặc tái lập mối quan hệ quân bình của Ngũ hành trong cơ thể (đối với người đau ốm). Món ăn đầy đủ Ngũ hành thường tồn tại rất lâu phong tục ẩm thực (tô phở, nước mắm…). Tránh tình trạng dùng thái quá một món ăn nào đó vì có thể hại sức khỏe. Thí dụ: ăn quá chua hại Can, quá mặn hại Thận; hoặc khi đang có bệnh về Tỳ (Thổ) nên tránh dùng thức ăn uống chua (Mộc) để tránh làm hại thêm Tỳ Vị (Mộc tăng khắc Thổ).
B. Ứng dụng vào tổ chức công việc, tổ chức sinh hoạt hàng ngày:
Dựa theo tính chất của từng hành trong Ngũ hành: Sinh (Mộc), Trưởng (Hỏa), Hóa (Thổ), Thu (Kim), Tàng (Thủy) và qui luật của Ngũ hành mà tổ chức công việc hợac sinh hoạt thường ngày. Thí dụ:
- Khởi đầu một ngày, công việc luôn có tính chất Mộc cần có thời gian để Sinh. Thí dụ: máy chạy một chút cho trơn máy, người tập thể dục hít thở để khởi động cho một ngày.
- Kế tiếp là Hỏa (Trưởng): đẩy mạnh tiến độ công việc, đây là lúc năng suất công việc cao nhất.
- Công việc có kết quả, có sản sinh ra một cái gì mới mẻ thì công việc mới tồn tại {Thổ (Hóa)}.
- Khi đã có kết quả cần biết thu lại, rút lui từ từ về, nghỉ ngơi dần {Kim (Thu)}.
- Và ẩn, chứa lại, nghỉ ngơi để chuẩn bị cho ngày mới {Thủy (Tàng)}, chuẩn bị cho quá trình Sinh Trưởng Hóa Thu Tàng kế tiếp. Tránh làm ngược lại hoặc làm rối loạn quá trình đó.
Một thí dụ khác: Tổ chức hội họp: trước tiên cần có thời gian cho mọi người chuẩn bị, tập trung (Mộc); sau đó đi vào vấn đề bàn luận (Hỏa); việc bàn luận đó phải đi đến một kết quả, kết quả hữu ích (Thổ); rồi có đúc kết lại vấn đề (Kim), ra quyết định tiến hành công việc và chấm dứt cuộc họp (Thủy). Mối quan hệ của từng giai đoạn nêu trên cũng có Sinh, Khắc, Thừa, Vũ. Việc tiến hành một công việc bất kỳ nào cũng tương tự. Có như vậy công việc mới thành công vì diễn tiến phù hợp với qui luật Ngũ hành.
C. Ứng dụng vào Triệu chứng học:
Căn cứ vào Bảng qui loại của Ngũ hành, người ta phân loại triệu chứng bệnh để xem xét mối quan hệ của các triệu chứng ấy theo qui luật của Ngũ hành. Thí dụ: can có quan hệ với Đởm, chịu trách nhiệm hoạt động của gân cơ (chủ cân), tình trạng công năng của Can thể hiện ra mắt (khai khiếu ra mắt), móng tay móng chân (vinh nhuận ra móng), có liên quan đến tính khí giận dữ… Do đó, co giật, mắt đỏ, móng khô, nóng tính bất thường,… là triệu chứng của Can, vì Đởm, gân cơ, mắt, móng, tính khí giận dữ… tất cả đều cùng thuộc Hành Mộc (xem lại bảng 1).
D. Ứng dụng vào việc phân tích bệnh và chẩn đoán:
- Tạng Phủ được qui vào Ngũ hành (bảng 1). Mối tương quan của Tạng Phủ trong trường hợp bệnh lý được phân tích theo qui luật Tương thừa – Tương Vũ. Thí dụ: bình thường Phế Kim khắc Can Mộc để duy trì sự cân bằng, khi thở quá mức (Phế Thịnh) sẽ gây tê rần và co rút chân tay (Mộc).
- Học thuyết Ngũ hành giúp truy tìm nguyên nhân hay gốc phát sinh bệnh ban đầu. Thí dụ: mất ngủ là chứng của Tâm (Hỏa) có thể do: (1) chính Tâm gây ra, hay (2) do Tạng Sinh nó gây ra: Can (Mộc), hay (3) do Tạng nó Sinh gây ra; Tỳ (Thổ), hay (4) do tạng nó Khắc gây ra; Phế (Kim), hay (5) do Tạng Khắc nó gây ra: Thận (Thủy).
C. Ứng dụng vào việc điều trị bệnh:
Điều trị bệnh chủ yếu dựa vào nguyên tắc: “Con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con”. Thí dụ: Phế yếu (Phế Hư) phải làm mạnh Tỳ Vị lên (Kiện Tỳ) gọi là nguyên tắc Bồi Thổ sinh Kim.
Nguyên tắc này được ứng dụng nhiều nhất trong lãnh vực Châm cứu.
E. Ứng dụng vào việc phân loại, bào chế và sử dụng thuốc:
Người xưa dựa vào màu sắc và mùi vị của thuốc mà phân loại thuốc theo Ngũ hành và từ đó suy ra tác dụng của thuốc đi vào Tạng Phủ tương ứng. Thí dụ: thuốc vị chua, màu xanh đi vào Can, vị ngọt, màu vàng đi vào Tỳ. Người xưa cũng dựa vào Ngũ hành để tìm thuốc mới và bào chế thích hợp để biến đổi tính năng của thuốc. Thí dụ: sao thuốc với giấm để thuốc đi vào Can; sao với đường, mật để vào Tỳ; tẩm muối để đi vào Thận; sao với gừng để vào Phế, sao cho vàng để vào Tỳ, chế cho đen để vào Thận…
Tóm lại, Học thuyết Ngũ hành là học thuyết về mối quan hệ giữa mọi sự vật với nhau. Muốn nghiên cứu bất kỳ một sự vật, một hiện tượng gì luôn phải biết đặt trong mối quan hệ của nó với những sự vật hiện tượng xung quanh nó. Điều quan trọng trong mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng chính là quá trình Sinh và Khắc chứ không phải là con số 5 hoặc cái tên Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy. Đó mới thực sự là tinh thần của Học thuyết Ngũ hành.
sưu tầm nhiều nguồn
__________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét